Trồng dừa dứa thơm ngon đúng kỹ thuật trồng dừa dứa, kỹ thuật trồng dừa dứa
Để dừa trở thành cây ăn trái có hiệu quả kinh tế cao, bà con nên trồng những giống cho năng suất, chất lượng tốt. Dừa dừa dứa (xiêm thơm – Thái Lan) có thể đáp ứng những yêu cầu này.
Dừa được trồng ở nhiều địa phương, từ các tỉnh miền Trung đến Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng ven biển đặc biệt thích hợp với dừa dứa. Loại cây này ưa đất tơi xốp, hàm lượng dinh dưỡng các chất dễ tiêu cao và đất không quá phèn hay quá mặn, độ p H từ 5 trở lên có thể trồng tốt. Trên vùng đất bạc màu cần cung cấp nhiều phân hữu cơ.
Dừa dứa thuộc nhóm dừa lùn, giống đồng hợp tử (homozygous). Nếu trồng chuyên canh dừa dứa cách ly với các vườn dừa khác giống thì không có khả năng lai tạp. Dạng cây, trái giống dừa xiêm xanh, chỉ khác là nước và cơm dừa có mùi thơm của dứa, mùa nắng hạn mùi thơm càng đậm. Bộ rễ và lá cũng có mùi thơm.
Phương pháp chọn giống:
Dừa dứa có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao và lâu dài trên 20 năm. Nó có vị thế quan trọng trong chiến lược bảo vệ môi trường, phát triển kinh tế nông thôn, du lịch sinh thái… Vì thế, việc chọn giống để trồng là rất quan trọng vì nếu lầm lẫn trong khâu chọn giống thì năng suất thấp, chất lượng kém.
Vườn cây đầu dòng phải được trồng thuần dừa dứa và hoàn toàn cách ly với các vườn dừa khác giống. Cây giống được nuôi trong túi nhựa kích thước trung bình 20x 28cm, chiều cao cây từ 50cm trở lên, có 4 – 5 tàu lá, không bị sâu bệnh, bộ rễ phát triển.
Thời vụ và khoảng cách trồng: Chủ yếu tuỳ thuộc vào chế độ mưa mỗi vùng, thích hợp nhất là ngay sau vài cơn mưa đầu mùa, lúc này thời tiết thuận lợi giúp cho cây con mau bén rễ, sớm phục hồi và phát triển nhanh. Thời điểm trồng thường vào đầu mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 7 dương lịch (dl). Tuy nhiên, ở những nơi chủ động được nguồn nước tưới thì dừa có thể trồng quanh năm.Khoảng cách và mật độ trồng tùy theo thiết kế vườn trồngsao cho khi cho trái ổn định (trên 5 năm tuổi) thì cây không giáp tán với nhau.Khoảng cách trồng cây cách cây 7m x 7m, trồng thâm canh thì 6m x 6m. Nếu trồng xen các loại cây khác thì khoảng cách có thể thưa hơn khoảng 1m và cây trồng xen cách gốc dừa ít nhất là 2m.
Phương pháp trồng: Trước tiên phải chuẩn bị hố với kích thước ngang 0,6m x rộng 0,6m x sâu 0,6m; trộn 10 – 15 kg phân hữu cơ hoai mục với đất đã được đào lên (sử dụng lớp đất mặt không nên sử dụng đất sét bên dưới), trộn xong lấp hỗn hợp này trở lại hố và đắp thêm đất tạo mô thấp khoảng 10 đến 20 cm so với mặt liếp là vừa. Sau đóđào hốc hình tròn có đường kính 40cm, sâu 40cm ngay giữa mô, bón lót thêm 0,5 kg phân lân rãi đều xuống hố (đối với vùng đất xấu có thể bón 1kg), đặt cây giống vào hốc (cây giống phải được tháo bỏ phần vỏ bầu bằng nylon, đặt gáo dừa hướng vào trong liếp và thân cây ra hướng mương) sau đó lấp đất lại, ém đất xung quanh vừa phải, cắm cọc giữ cho cây khỏi ngã hoặc gió lay làm đứt rễ. Sau khi trồng nên che phủ xung quanh gốc cây bằng các vật liệu hữu cơ sẵn có như rơm khô, cỏ khô không hạt, rễ cây lục bình…để giữ ẩm và hạn chế xói mòn đất khi tưới.
Chăm sóc bón phân: Việc chăm sóc dừa cũng rất phức tạp và phải đúng cách. Liều lượng phân bón cho dừa tùy thuộc vào loại đất trồng, có trồng xen hay thâm canh, màu lá trên cây dừa (xanh biếc hay đã ngã vàng), có thể áp dụng công thức như sau:
Đối với cây từ 1 đến 3 năm tuổi thì mỗi năm bón 2 lần vào đầu và gần cuối mùa mưa, lần đầu vào tháng 5-6 dl và lần sau gần cuối mùa mưa, khoảng tháng 10 dl. Phân được trộn đều, cuốc bốn lỗ quanh gốc theo hình chiếu tán, cách gốc 0,5 đến 1,2 m tùy độ tuổi của cây, bón đều lượng phân rồi lấp đất lại.
Đối với dừa từ 3,5 năm đến 5 năm sau khi trồng, cây bắt đầu cho trái ổn định ta có thể chia lượng phân ra bón 3 đến 4 lần/năm, lần đầu bón 30% lượng phân vào đầu mùa mưa, lần 2 và 3 bón mỗi lần 20% lượng phân, lần cuối bón 30% trước khi dứt mưa khoảng 1 tháng. Phân được trộn đều, xới đất xunh quanh gốc và cuốc một đường rảnh đường kính cách gốc khoảng 1,5 đến 2m, sâu 10 cm, rộng 40cm sau đó bón đều lượng phân vào rảnh rồi lấp đất phủ kín bề mặt, lần bón phân tiếp theo xới đất liền kề và nới rộng ra hơn lần trước.
Ngoài ra, cũng có thể rải phân xunh quanh gốc dừa sau đó bồi bùn vào đầu mùa mưa. Trên vùng đất phèn bón thêm vôi từ 1 đến 3 kg cho một gốc tùy thuộc vào mức độ nhiễm phèn của đất (bón vôi trước, sau vài cơn mưa đầu mùa thì tiến hành bón phân vô cơ).Đối với những vùng đất cao nên tưới nước cho dừa vào mùa khô (tưới 1-2 lần/tuần).
Quản lý một số đối tượng chính: Cây mới trồng 1 đến 2 tuổi hàng tháng phải phun một lần thuốc trừ bọ cánh cứng hại dừa, có thể dùng Vitako hay Regent phun trực tiếp lên ngọn dừa, nếu không chúng cắn phá gây thiệt hại, mất sức dừa. Để hạn chế chuột, kiến vương, đuông phá hại nên thường xuyên dọn nhen dừa, rửa sạch sẽ những lá già, những buồng không đậu trái hoặc đã thu hoạch xong cần chặt bỏ. Dùng 300g mạt cưa trộn với 300g Basudin 10H rải lên các kẻ nách lá từ trên đọt xuống định kỳ 3 tháng/1 lần hoặc dùng vải mùng bọc túi thuốc đã được trộn mùn cưa treo trên ngọn cây hoặc nách lá.Sau khi trồng từ 3,5 đến 4 năm dừa sẽ ra trái, bình quân mỗi năm cây dừa có khả năng cho từ 100 đến 120 trái/cây. Đối với dừa uống nước thu hoạch khi nước dừa còn đầy trong trái, tuổi trái khoảng 6-7 tháng, nước dừa lúc này ngọt và ngon, riêng dừa dứa có mùi thơm lá dứa rất đặc trưng. Còn đối với dừa để giống thì ta nên thu trái đủ độ chín từ 11 đến 12 tháng tuổi, vỏ trái đã chuyển sang màu nâu, khi lắc nghe róc rách.
Phòng trừ sâu – bệnh gây hại:– Dùng Supracide, Bassan diệt rầy..; Basudin 50Ec, Fenbis… diệt sâu ăn lá.– Dùng chế phẩm Mat Metarhizium anisopliae, liều 50g, pha 1 lít nước + 20ml dầu dừa hay dầu ăn, lắc đều, đổ vào nõn dừa có bọ gây hại (xử lý vào mùa mưa đạt hiệu quả cao hơn). Dùng 1g Actara 25WG pha 5 ml nước bơm vào thân cây. Hay dùng Diaphos 10H, Vicarp 95 BHN đặt vào đọt non cây dừa
- Liên kết các Bộ, Tỉnh, Thành phố -Chính phủ Đảng Cộng sản Báo Ninh Thuận Quốc hội UBND tỉnh Ninh Thuận Sở Công Thương
Trong điều kiện ngập nước liên tục sẽ ảnh hưởng đến khả năng hô hấp của bộ rễ, làm cho cây dừa giảm sức tăng trưởng do cây dừa là cây chịu nước nhưng không chịu ngập.
Rễ già sẽ chết và rễ mới phát triển liên tục. Tuần đầu tiên sau khi nảy mầm, cây dừa con sẽ mọc ra một rễ cấp 1 có chiều dài trung bình 5cm, 10 ngày sau sẽ mọc ra rễ thứ hai, sau sáu tuần sẽ có trung bình 3 rễ cấp 1, với chiều dài rễ dài nhất khoảng 20cm.
Khi cây dừa 5 năm tuổi sẽ có khoảng 548 rễ cấp 1 và đạt số lượng 5.200 rễ cấp 1 khi cây 13 năm tuổi. Số lượng rễ cấp 1 ở cây dừa trưởng thành biến động từ 2.000 đến 16.500 rễ. Hệ thống rễ dừa phần lớn tập trung ở xung quanh gốc trong vòng bán kính 1,5-2m. Rễ có thể ăn sâu đến 4m, trong đó 50% rễ tập trung ở 50cm lớp đất mặt.
2. Thân
Thân dừa mọc thẳng, không phân nhánh, chiều cao trung bình từ 15-20m. Trong giai đoạn đầu sau khi trồng thân dừa ngắn, phát triển chậm, cho đến khi chiều ngang phát triển đầy đủ thì thân mới bắt đầu cao lên. Giai đoạn này kéo dài khoảng 4 năm tùy theo giống. Do đặc điểm này mà thân dừa cao chỉ phát triển mạnh sau 4-5 năm.
Gốc dừa là một trong những đặc điểm để phân biệt nhóm giống dừa cao và dừa lùn. Ở nhóm giống dừa lùn thường có gốc nhỏ, ngược lại ở nhóm giống dừa cao và dừa lai giữa giống lùn và giống cao thường có gốc phình to đến rất to.
Số sẹo lá trên thân trên 1m chiều cao thân là một trong những đặc điểm để đánh giá điều kiện sinh trưởng và phát triển của cây, dựa trên đặc điểm này làm tiêu chuẩn để chọn giống theo phương pháp truyền thống. Do cấu tạo của thân không có tầng sinh mô thứ cấp nên những tổn thương trên thân dừa không thể phục hồi được và đường kính thân cũng không phát triển theo thời gian nên quan sát một đoạn thân ta có thể đánh giá tình hình sinh trưởng của cây trong thời gian đó. Đồng thời thân phát triển từ đỉnh sinh trưởng (củ hủ) nên khi bị đuông tấn công cây sẽ bị chết.
Tóm lại, thân dừa là đặc điểm dùng để đánh giá sự sinh trưởng của cây. Thân dừa to, không bị tổn thương, sẹo to, khít là cây dừa sinh trưởng mạnh, cho năng suất cao.
3. Lá
Một cây dừa có khoảng 30-35 tàu lá. Mỗi tàu lá dài 5-6m vào thời kỳ trưởng thành. Ở cây trưởng thành, 1 tàu lá dừa gồm 2 phần. Phần cuống lá không mang lá chét, lồi ở mặt dưới, phẳng hay hơi lõm ở mặt trên, đáy phồng to, bám chặt vào thân và khi rụng sẽ để lại một vết sẹo trên thân.
Phần mang lá chét mang trung bình 90-120 lá chét mỗi bên, không đối xứng hẳn qua sống lá mà một bên này sẽ có nhiều hơn bên kia khoảng 5-10 lá chét.
La%20dua.jpg" alt="*">
Đỉnh sinh trưởng sản xuất lá liên tục, cứ một lá xuất hiện trên tán thì có thêm một chồi lá xuất hiện và một lá già rụng đi.
Một cây dừa tốt, mỗi năm ra ít nhất 14-16 lá (24-26 ngày/lá) đối với nhóm dừa cao và 16-18 lá (20-22 ngày/lá) đối với nhóm dừa lùn. Mùa khô dừa ra lá nhanh hơn so với mùa mưa.
Một tàu lá dừa luôn luôn có đời sống 5 năm, từ khi tượng đến khi xuất hiện 2,5 năm và từ khi xuất hiện đến khi khô, rụng là 2,5 năm. Nếu điều kiện tự nhiên bất lợi lá sẽ ra chậm hơn, số lá ít đi chứ không rút ngắn đời sống của lá. Điều kiện dinh dưỡng và nước đầy đủ cây ra nhiều lá sẽ làm cho số lá trên tán cây nhiều hơn (35-40 tàu). Nếu gặp điều kiện bất lợi thời gian ra lá kéo dài, số lá trên tán cây sẽ ít. Ở vùng khô hạn, trên tán lá có một số lá khô nhưng không rụng, đó là điều kiện rất đặc trưng chứng tỏ cây bị thiếu nước.
Tóm lại, quan sát tán lá của cây dừa ta có thể đánh giá được khả năng sinh trưởng và cho năng suất của cây. Đây là một trong những chỉ tiêu dùng để tuyển chọn
4. Hoa
Thời gian từ khi tượng đến khi nở trung bình từ 30-40 tháng. Thông thường mỗi nách lá mang một phát hoa, do đó có bao nhiêu lá mới là có khả năng có bấy nhiêu phát hoa được sinh ra mỗi năm. Tuy nhiên, giai đoạn 15-16 tháng trước khi hoa nở (giai đoạn phân hóa nhánh gié) phát hoa dừa có thể bị thui do cây dừa bị thiếu dinh dưỡng, khô hạn hay ngập úng. Đây là một trong những nguyên nhân góp phần gây ra hiện tượng “mùa treo” ở dừa.
Hoa dừa thuộc loại đơn tính đồng chu nghĩa là hoa đực và hoa cái riêng rẻ nhưng ở trên cùng một gié hoa. Số lượng hoa cái trung bình biến động từ 20-40 cái trên mỗi phát hoa tùy theo giống. Số hoa cái trên buồng ít có thể do thiếu chất đạm. Nhóm dừa lùn có số lượng hoa cái nhiều hơn nhóm dừa cao.
Thời gian để hoa cái đầu tiên nở đến hoa cái cuối cùng thụ phấn xong trên cùng phát hoa gọi là pha cái, kéo dài từ 5-7 ngày ở giống dừa cao và từ 10-14 ngày đối với giống dừa lùn.
Thời gian để hoa đực đầu tiên mở đến hoa đực cuối cùng mở gọi là pha đực, kéo dài khoảng 18-22 ngày. Thời gian xuất hiện của pha đực và pha cái hình thành nên kiểu thụ phấn khác nhau và là một trong những đặc tính quan trọng để phân biệt giữa các giống. Trên giống dừa cao pha đực thuờng xuất hiện trước rồi mới đến pha cái nên có sự lệch pha và sự thụ phấn chéo là phổ biến. Trên giống dừa lùn, pha cái thường trùng với pha đực nên dừa lùn thường tự thụ phấn. Đối với nhóm dừa lai, giữa pha đực và pha cái có sự trùng pha một phần nên có thể xảy ra hiện tượng tự thụ trên cùng một phát hoa. Do nhóm dừa cao có đặc tính thụ phấn chéo nên khi nhân giống bằng phương pháp hữu tính cần có kỹ thuật riêng biệt và nghiêm ngặt hơn so với giống dừa lùn.
Hoa dừa được thụ phấn chủ yếu nhờ gió và côn trùng, trong đó ong mật có vai trò quan trọng nhất. Việc nuôi ong trong vườn dừa làm tăng năng suất dừa đáng kể. Hiện tượng rụng trái non thường xuất hiện ở giai đoạn ba tuần sau khi đậu trái và có thể kéo dài đến tháng thứ sáu. Sự rụng trái non có thể gây ra bởi các nguyên nhân sau:
- Thiếu dinh dưỡng: Do thiếu đạm và kali.
- Điều kiện môi trường: do gặp điều kiện khắc nghiệt của môi trường như khô hạn, ngập úng hay đất có nhiều sét, thoát nước kém.
- Do sâu bệnh tấn công như các loại nấm Colletotrichum sp., Phytophthora sp,. Botriodiplodia sp. hay côn trùng gây hại như Amblypelta cocophaga, bọ cánh cứng Brontispa longissima.
- Nguyên nhân sinh lý do sự thành lập tầng rời.
5. Trái
Trái dừa thuộc loại quả hạch, nhân cứng. Trái gồm có ba phần là ngoại quả bì (phần vỏ bên ngoài được phủ cutin), trung quả bì (xơ dừa) và nội quả bì bao gồm gáo, nước và cơm dừa.
Vỏ dừa dày từ 1-5cm tùy theo giống, phần cuống có thể dày đến 10cm. Vỏ dừa bao gồm 30% là xơ dừa và 70% là bụi xơ dừa. Bụi xơ dừa có đặc tính hút và giữ ẩm cao từ 400-600% so với thể tích của chính nó.
Gáo dừa có hình dạng rất khác biệt tùy theo giống, độ dày của gáo từ 3-6mm. Bốn tháng tuổi sau khi thụ phấn gáo dừa bắt đầu hình thành và chuyển sang màu nâu và cứng hơn khi trái được 8 tháng tuổi.
Nước dừa xuất hiện từ tháng thứ ba sau khi thụ phấn và đạt được thể tích lớn nhất ở tám tháng tuổi. Thể tích sẽ giảm dần khi trái khô. Thành phần hóa học chủ yếu của nước dừa là đường và muối khoáng.
Cơm dừa bắt đầu hình thành 5 tháng sau khi thụ phấn, có thể thu hoạch để uống nước vào tháng thứ 7-8. Thời gian để hoa cái thụ phấn, phát triển thành trái và đến khi trái khô kéo dài 12 tháng. Thu hoạch trái ở giai đoạn 10 tháng sau khi đậu trái có thể giảm năng suất do trái chưa phát triển đầy đủ nhưng ở giai đoạn từ 11 tháng trở đi thì trái có thể dùng làm giống. Trọng lượng cơm dừa khô của một trái dừa dao động từ 100-350g/trái và chứa khoảng 65-74% dầu dừa tùy theo giống. Kích thước, hình dạng trái rất đa dạng, tùy theo giống.
II. NHU CẦU SINH THÁI
1.Khí hậu
Nhiệt độ thích hợp cho cây dừa là 27 0C và dao động từ 20-340C. Nhiệt độ thấp dưới 150C gây ra hiện tượng rối loạn sinh lý của cây. Do tác động của nhiệt độ nên khi trồng dừa ở những vùng có độ cao trên 500m thường cho năng suất không cao. Cây dừa có thể trồng trên các vùng có lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.000-4.000mm.
Lượng mưa lý tưởng từ 1.500-2.300mm và phân bố tương đối đều trong năm. Ẩm độ thích hợp là 80-90%, ẩm độ dưới 60% có thể gây ra hiện tượng rụng trái non.
Dừa là cây ưa sáng, cần tối thiểu 2.000 giờ chiếu sáng mỗi năm, 120 giờ chiếu sáng mỗi tháng thích hợp cho cây dừa (4 giờ/ngày). Gió nhẹ giúp tăng khả năng thụ phấn và đậu trái, đồng thời tăng khả năng thoát hơi nước dẫn đến tăng khả năng hút nước và dinh dưỡng của cây.
2. Đất đai: Cây dừa có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau từ đất cát nghèo dinh dưỡng. Tuy nhiên, thích hợp nhất là đất thịt pha cát, thoát thủy tốt. Cây dừa có thể chịu được đất với độ p H từ 5 đến 8. Tuy nhiên p H đất thích hợp nhất từ 5,5-7. Vùng bị khô hạn hay ngập úng không thích hợp cho cây dừa. Vùng mặn dừa có trái nhỏ.
III. CÁCH PHÂN BIỆT GIỐNG DỪA
Dừa có thể được phân thành 2 nhóm giống chính: giống dừa cao và giống dừa lùn với các đặc điểm chủ yếu như sau: Những đặc điểm phân biệt giữa hai nhóm giống dừa cao và giống dừa lùn
Giống dừa cao
Giống dừa lùn
- Thụ phấn chéo
- Tự thụ phấn
- Cho trái muộn (5-7 năm)
- Cho trái sớm (3-4 năm)
- Trái lớn, số trái/ quày ít
- Trái nhỏ, số trái/ quày nhiều
- Tăng trưởng nhanh, cây cao 18-20m
- Tăng trưởng chậm, cây thấp 10-12m
- Gốc phình to
- Gốc nhỏ, thẳng
- Cơm dừa dầy (1,2-1,3 cm)
- Cơm dừa mỏng (0,7-1 cm)
- Hàm lượng dầu cao (65-67%)
- Hàm lượng dầu thấp (
- Chu kỳ khai thác 50-60 năm
- Chu kỳ khai thác 30-40 năm
- Khả năng thích nghi tốt với các điều kiện bất thuận của môi trường
- Khả năng thích nghi kém với các điều kiện bất thuận của môi trường
Ngoài ra, gần đây các nhà khoa học đề nghị thêm giống dừa lai. Dừa lai là kết quả lai tạo giữa 2 giống dừa cao và dừa lùn nên mang đặc tính trung gian của 2 nhóm giống nói trên. Ưu điểm nổi bật của giống dừa lai là ra hoa sớm, năng suất cao, hàm lượng dầu cao và có khả năng thích nghi với một số điều kiện bất thuận của môi trường.
IV. ĐẶC TÍNH MỘT SỐ GIỐNG DỪA CÓ TRIỂN VỌNG
1. Dừa cao (để thu trái khô chế biến)
a. Dừa ta: gồm 2 dạng: ta xanh (Hình 1) và ta vàng (Hình 2). Đây là giống dừa rất thích hợp cho các ngành công nghiệp ép dầu và chế biến trái dừa vì có hàm lượng dầu cao (65-67%), dầy cơm (≥1,2cm), có tiềm năng năng suất cao (70-80 trái/cây/năm), trái có kích thước từ trung bình đến to, gáo dầy (3-4 mm) và xơ khá dầy. Trọng lượng trái từ 1,6-2,0 kg/trái khô.
b. Dừa dâu: Đặc điểm nổi bật của giống dừa dâu là sai trái (80-100 trái/cây/năm), số trái/buồng nhiều (10-15 trái/buồng), hàm lượng dầu cao (63-65%) nhưng trái có trọng lượng trung bình (1,6-1,8 kg/trái khô), vỏ mỏng, cơm trung bình đến dầy (11-12 mm), gáo mỏng. Dừa dâu có 2 dạng: Đây là giống dừa thích hợp cho công nghiệp ép dầu và chế biến trái dừa.
2. Dừa lùn (để thu trái tươi uống nước)
a. Dừa Xiêm Xanh: Đây là giống dừa rất được ưa chuộng dùng để uống nước do có vị ngọt thanh. Trái nhỏ, trọng lượng từ 1,2-1,5 kg, thể tích nước từ 250-300 ml/trái, năng suất cao (120-150 trái/cây/năm).
b. Dừa Xiêm lục: Dừa Xiêm Lục có màu sắc và kích thước trái tương tự như Dừa Xiêm xanh nhưng trái có dạng hình quả lê, dưới đáy trái có quầng xanh đậm và mỗi quày có 2 mo nang, một mo nang to bên ngoài nằm chồng khít lên mo nang nhỏ bên trong. Trọng lượng trái từ 1,2-1,5 kg, thể tích nước từ 250-300 ml/trái, năng suất cao (120-150 trái/cây/năm). Nước dừa Xiêm Lục rất ngọt, độ đường cao, gáo dầy nên rất thích hợp cho việc uống nước và xuất khẩu vì có khả năng bảo quản được lâu và độ vỡ trái thấp khi sơ chế và vận chuyển đi xa. Đặc biệt đây là giống dừa cho trái sớm nhất trong tất cả các giống dừa hiện có ở Việt Nam và trên thế giới tính đến thời điểm hiện nay, thời gian ra hoa lần đầu chỉ sau 18-20 tháng sau khi trồng.
c. Dừa Xiêm Lửa: Dừa Xiêm Lửa (Hình 9-10) là giống dừa quý hiếm, có năng suất cao, màu cam sáng rất đẹp phù hợp cho phát triển du lịch sinh thái. Dừa Xiêm Lửa có trái tròn, nhỏ trọng lượng trái từ 1,0-1,2 kg, thể tích nước từ 280-320 ml, có năng suất cao (80-140 trái/cây/năm), cho trái sớm (2,0-2,5 năm sau khi trồng). Đặc biệt dừa Xiêm Lửa lâu bị thối cuống, rụng cuống sau khi hái khỏi cây nên rất thích hợp cho việc sơ chế, bảo quản xuất khẩu. Đồng thời theo kinh nghiệm dân gian uống nước nấu từ vỏ dừa phơi khô còn có tác dụng trị giun, sán.
d. Dừa Xiêm xanh ruột hồng: Đây là giống dừa tương đối đặc biệt do Thạc sĩ Nguyễn thị Lệ Thủy đặt tên, mô tả và xây dựng lý lịch giống. Giống dừa Xiêm xanh ruột hồng (Hình 11-12) có trái bầu tròn màu xanh như dừa Xiêm xanh nhưng vỏ dừa bên trong và một phần gáo dừa khi còn non có màu hồng phấn rất đẹp. Đặc biệt hoa dừa và trái dừa non cũng có cuống màu hồng. Khi nẩy mầm, than mầm có màu hồng đỏ đậm, nhạt dần khi mầm phát triển to và lớn hơn. Kích thước trái trung bình từ 1,5-1,8 kg, nước nhiều 300-400 ml, vỏ mỏng, gáo tròn. Trái sai, năng suất bình quân 120-150 trái/cây/năm, mỗi gié mang nhiều hoa cái. Giống dừa này cũng cho trái sớm từ 2-2,5 năm sau khi trồng.
e. Dừa lùn vàng, lùn đỏ Mã Lai: Dừa Lùn vàng Mã Lai (Hình 13) và dừa Lùn đỏ Mã Lai (Hình 14) là hai giống nhập nội rất có triển vọng phát triển do có năng suất cao (80-140 trái/cây/năm), cho trái sớm (2,5-3,0 năm sau khi trồng). Trái tròn, từ nhỏ đến trung bình, trọng lượng trái từ 1,2-1,4 kg, thể tích nước từ 300-350 ml. Vỏ trái có màu vàng tươi hay cam.
3. Dừa lai
a. JVA 1: Giống dừa lai JVA1 (Hình 15) là giống dừa lai giữa giống mẹ là lùn vàng Mã Lai và giống cha là dừa cao Bago Oshiro của Philippines. Trái tròn có kích thước từ trung bình đến lớn, dầy cơm trung bình (11 mm), hàm lượng dầu cao (65,5%). Thời gian từ khi trồng đến khi bắt đầu cho trái là 36 tháng. Năng suất trung bình từ 80-150 trái/ cây/ năm.
b. JVA 2: Giống dừa lai JVA2 (Hình 16) là giống lai giữa giống mẹ là lùn đỏ Mã Lai và giống cha là dừa cao Bago Oshiro của Philippies. Bắt đầu cho trái sau 36 tháng trồng. Năng suất trung bình từ 60-140 trái/cây năm. Trọng lượng trái lớn (2,0-2,2 kg/trái), hàm lượng dầu cao (65-67%).
4. Giống Dừa có giá trị kinh tế cao
b. Dừa Sáp (đặc ruột): Dừa Sáp là đặc sản của huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh. Hiện nay ở huyện nầy có khỏang 800-1.000 cây đang cho trái và đang phát triển thêm gần 50 ha. Đặc điểm của giống dừa Sáp là cơm mềm, sền sệt, dầy, có nước rất ít hoặc không có. Trái Sáp dùng để ăn tươi, làm kem hay bánh kẹo vì cơm dừa rất béo, mềm nên khó chiết xuất dầu. Trọng lượng trái khô trung bình từ 1,2-1,5 kg. Năng suất từ 40-80 trái/cây/năm. Đặc điểm của giống dừa này là chỉ có 1-2 trái Sáp/buồng (tỉ lệ 20-25%). Muốn nhân giống cây dừa Sáp phải ươm từ trái không Sáp (trái dừa Sáp không nẩy mầm) trên cùng buồng. Tuy nhiên không phải cây nào cũng mang trái Sáp, tỉ lệ nầy chỉ chiếm khỏang 50-75%. Về hình thái không thể phân biệt được cây dừa Sáp và cây dừa thường, cũng như trái dừa Sáp và trái dừa thường, cho đến hiện nay người ta chỉ phân biệt được trái dừa Sáp khi trái đã bắt đầu khô và bằng phương pháp lắc trái.
V. CHỌN GIỐNG DỪA
1. Chọn vườn giống: Vườn giống là một yêu cầu khá quan trọng trong công tác chọn giống dừa vì cây dừa chủ yếu là thụ phấn chéo (nhóm giống dừa cao), nếu chỉ chọn cây mẹ đạt yêu cầu sẽ không bảo đảm có được cây con có chất lượng cao vì không rõ được nguồn gốc hạt phấn của cây cha.
Vườn dừa đạt yêu cầu chọn giống phải có khoảng ≥ 20 cây cùng giống, phát triển đồng đều, cho năng suất cao và sản lượng cao liên tục nhiều năm. Vườn có độ tuổi từ 10-40 năm, không bị sâu bệnh và trồng trong điều kiện bình thường.
2. Chọn cây mẹ: Khi chọn cây mẹ cần quan tâm đến các chỉ tiêu liên quan đến yếu tố cấu thành năng suất như số trái/buồng, số buồng/cây/năm, trọng lượng cơm dừa khô/trái, hàm lượng dầu. Riêng đối với dừa uống nước cần lưu ý thêm độ ngọt của nước và thể tích nước/ trái. Cây mẹ sau khi khảo sát được đánh dấu và theo dõi sau 3 năm liên tiếp để chọn những cây có năng suất cao ổn định. Cụ thể việc chọn cây mẹ có thể dựa trên một số đặc điểm sau:
- Tuổi cây từ 10-40 năm
- Tán lá phân bố đều, sẹo lá khít.
- Cây mọc mạnh, thân thẳng
- Không chọn những cây trồng trong điều kiện đặc biệt: gần chuồng trại, gần nhà vệ sinh.
- Có nhiều quày trên tán
- Số trái trên cây ≥ 60 trái (đối với dừa Ta) và ≥ 80 trái (đối với dừa Dâu); 100-120 trái/cây đối với dừa uống nước.
- Trọng lượng cơm dừa tươi/trái: 350-400g (đối với dừa ta) và 300-400g (đối với dừa Dâu).
3. Tiêu chuẩn chọn trái giống: Việc tuyển lựa trái dừa làm giống thường dựa vào một số tiêu chuẩn sau:
- Tuổi trái: Trái đủ độ chín, từ 11-12 tháng tuổi, vỏ trái đã chuyển một phần sang màu nâu, khi lắc nghe róc rách.
- Kích thước trái: Đặc trưng của giống, đồng đều theo từng giống, không quá to hay quá nhỏ
- Sức khỏe trái giống: Trái giống đều đặn, không dị dạng và sâu bệnh.
- Mùa thu họach: nên thu họach trái giống trong mùa khô. Mùa để giống thích hợp là trước và sau tết âm lịch.
VI. THIẾT LẬP VƯỜN ƯƠM TRÁI
1. Chọn vị trí: Mục đích chính của việc thiết lập vườn ươm trái là tuyển chọn được những trái nẩy mầm sớm, mầm mọc mạnh. Đây là yếu tố quan trọng giúp cây dừa cho trái sớm và năng suất cao sau này. Vườn ươm trái nên thiết lập ở địa điểm gần vùng nguyên liệu, gần vườn ươm cây con và gần nguồn nước tưới. Nên chọn khu đất tốt, bằng phẳng, thoát thủy tốt và được cách ly với gia súc.
2. Cách thiết lập vườn ươm: Làm đất tơi xốp bằng cách trộn thêm tro trấu, bụi xơ dừa hay phân hữu cơ. Lên liếp cao 15-20 cm, rộng từ 1,2-1,5 m vừa đủ ươm 5-6 trái. Giữa hai liếp nên đào rãnh rộng 20-30 cm giúp thoát nước tốt và việc đi lại chăm sóc được dễ dàng. Ở vùng có nhiều mối nên ươm trái trên cát để hạn chế mối phá hại.
3. Xử lý trái giống trước khi ươm: Trái giống sau khi thu hoạch nên để nơi thoáng mát từ 2-3 tuần cho trái qua giai đoạn nghỉ và khô đồng đều. Xử lý trái giống bằng cách vạt một mảng vỏ có đường kính 5-6 cm ở phần cuống đối diện với mặt phẳng nhất của trái dừa nhằm giúp trái hút ẩm dễ dàng và nảy mầm nhanh hơn. Trước khi ươm có thể ngâm trái trong nước ao khoảng 2-3 ngày để giúp trái mau nẩy mầm và hạn chế công tưới khi đưa vào vườm ươm. Xử lý trái với dung dịch Na2CO3 để trái mau nẩy mầm và cây con mạnh khỏe sau nầy. Nên chọn trái có cùng độ chín để phân biệt sự khác biệt về thời gian nảy mầm của trái.
4. Kỹ thuật ươm: Đặt trái vào luống theo hướng nằm ngang, mặt có mảng vỏ bị vạt hướng lên trên, chiều rộng luống vừa đặt đủ 5-6 trái khít nhau, phủ đất, bụi xơ dừa hay tro trấu kín 2/3 trái giúp cho trái được giữ ẩm tốt và dễ kiểm tra khi nẩy mầm. Để tiện theo dõi và tuyển chọn được trái nẩy mầm sớm nên lập bảng tên giống theo từng lô trái. Bảng tên gồm các nội dung sau: tên giống, ngày ươm, số trái ươm, số trái nảy mầm, đặt trước các liếp.
5. Chăm sóc trái trong vườn ươm: Cây con quang hợp kém nên cần giảm bớt cường độ ánh sáng khoảng 50% bằng cách che lưới hay xen trong vườn cây so đủa. Làm cỏ thường xuyên, không nên để cỏ mọc phủ kín trái dừa.
Tưới nước đủ ẩm, có thể kiểm tra độ ẩm bằng cách ấn nhẹ đầu ngón tay vào vị trí vạt, khi thấy nước rỉ ra tay là đủ. Nên thường xuyên kiểm tra sự phá hại của chuột và động vật.
Khi trái bắt đầu nẩy mầm thì chuyển dần sang vườn ươm cây con. Sau ba tháng nên loại bỏ những trái không nẩy mầm, trái có mầm còi cọc, mầm cong queo, có màu sắc khác lạ hoặc bị bạch tạng (màu trắng), cây có 2-3 chồi.
Tỉ lệ loại bỏ trong vườn ươm trái từ 10-30% tùy theo giống. Chọn những trái đã nảy mầm sớm, mầm mọc mạnh, có màu sậm đặc trưng của giống, không sâu bệnh, không dị dạng chuyển qua vườn ươm cây con.
VII. THIẾT KẾ VƯỜN ƯƠM CÂY CON
1. Ươm cây con trên đất:
Liếp ươm cây con cần được làm sạch cỏ, xới đất sâu 20-25 cm, bón phân lót hữu cơ với lượng 2-4 kg/m2 để cây phát triển tốt.
Đặt trái đã nảy mầm xuống đất theo hình tam giác đều có cạnh 60cm, đặt gốc cây con ngang mặt đất, cứ ba hàng chừa một lối đi rộng 1m để tiện đi lại chăm sóc. Theo cách ươm dừa của nhà vườn, trái dừa được đặt nơi râm mát dưới bóng cây hay gần nguồn nước cho trái nẩy mầm và phát triển thành cây con.
Cây dừa ươm bằng cách nầy thường chậm cho trái vì không tuyển lựa được trái nẩy mầm sớm, cây con không được chăm sóc đầy đủ đặc biệt chế độ phân bón và phòng trừ sâu bệnh.
2. Ươm cây con trong túi nhựa dẻo:
Dùng túi nhựa PE đen có kích thước 40 x 40cm có đục 4 lổ thoát nước với đường kính khoảng 0,5-1,0 cm ở vị trí 1/3 chiều cao của túi.
Trộn đất vô bầu cây theo tỉ lệ: 1 phần cát (tro trấu, bụi xơ dừa đã xử lý) + 3 phần đất + 1 phần phân hữu cơ, đổ hỗn hợp vào 2/3 thể tích bầu, sau khi đặt trái đã nảy mầm vào lắp đất cho đầy, sau đó đặt túi ươm cây ra theo hình tam giác đều có cạnh 60 cm.
a. Bón phân: Lượng phân bón cho cây con được trình bày trong Bảng 1. Có thể bón phân cho cây con bằng cách pha phân vào nước và tưới cho cây. Khi cây phát triển kém, lá không có màu xanh đậm và láng nên bổ sung thêm phân bón lá. Không nên bón phân vào những lúc mưa dầm.